Nha đam còn được gọi là cây Lô hội, tên khoa học là Aloe vera hoặc
Aloe barbadensis, thuộc họ Aloeaceae (Liliaceae) . Tên Aloe vera được
chính thức công nhận bởi Quy ước quốc tế về danh xưng thực vật
(International rules of botanical nomenclature), và A. barbadensis được
xem là một tên đồng nghĩa. Tuy nhiên, trong danh mục cây thuốc của Tổ
chức y tế thế giới (WHO), Aloe được xem là tên chung của khá nhiều loài
khác nhau như Aloe chinensis, A. elongata, A. indica…
Ngoài ra, một loài Aloe khác, Aloe ferox cũng được chấp nhận là một
cây cung cấp nhựa Aloe. Mỹ gọi cây Aloe vera dưới tên “Curacao Aloes”,
còn Aloe ferox dưới tên “Cape Aloes”. Người Pháp gọi dưới những tên :
Aloe de Curacao, Aloe du Cap. Đông y gọi là Lô hội. WHO cũng liệt kê tên
gọi của Lô hội tại các nước với 78 danh xưng khác nhau… Tại nước ta, A.
vera được gọi là Lô hội hoặc Nha đam, Lưỡi hổ. Nha đam đã được dùng làm
thuốc trị bệnh từ khi chưa có lịch sử y học.
Sách thuốc cổ Ai Cập (3500 năm trước Tây lịch) đã chỉ dẫn cách dùng
Nha đam để trị nhiễm trùng, các bệnh ngoài da và làm thuốc nhuận trường,
trị táo bón… Nha đam đã được vẽ và mô tả trên các bản văn làm bằng đất
sét tại Mesopotamia từ năm 1750 trước Tây lịch như một cây thuốc. Tên
“Aloe’’ có thể phát xuất từ chữ Ả Rập “Alloeh’’ với ý nghĩa là một “chất
đắng và óng ánh”. Nha đam là một cây thuốc, không thuộc loại ma túy,
nhưng đã gây ra cả một cuộc chiến tranh: Khi Đại đế Alexander chinh phục
Ai Cập vào năm 332 trước Tây lịch, ông đã nghe nói đến một cây thuốc có
khả năng trị vết thương thần kỳ tại một hòn đảo tên là Socotra, ngoài
khơi Somalia, và để lấy cây này về làm thuốc cho quân của mình, đồng
thời ngăn chặn địch quân không cho họ chiếm được cây thuốc này, ông đã
gửi hẳn một đoàn quân đi chiếm hòn đảo (có lẽ là Madagascar ngày nay) và
cây này chính là Nha đam.
Cũng nên ghi nhận là tên của dược chất “Aloe” được ghi trong Phúc Âm
Thánh Gioan (19: 39- 40) dùng để ướp xác Chúa Jesus không phải từ Nha
đam, nhưng từ một cây khác gọi là Aloewood. (Aloewood chính là cây Gió
bầu cung cấp hai hương liệu quý: Trầm hương và Kỳ nam). Dioscorides, y
sĩ trứ danh người Hy Lạp, đã dùng Nha đam để trị vết thương ngoài da,
bệnh trĩ, vết ung loét và cả rụng tóc. Pliny, y sĩ La Mã đã biết dùng
Nha đam để trị táo bón…
Các nhà buôn Ả Rập đã đem Nha đam từ Tây Ban Nha sang các nước Á đông
trong khoảng thế kỷ thứ 6 và từ đó y học Ayuraveda của Ấn Độ biết dùng
Nha đam để trị bệnh ngoài da, ký sinh trùng đường ruột và cả đau bụng
khi có kinh. Tuy Nha đam có nguồn gốc từ châu Phi, nhưng sau đó đã được
đưa sang trồng tại châu Mỹ, nhất là vùng West-Indies và dọc bờ biển
Venezuela. Trong thế kỷ 19, đa số Aloe xuất cảng sang châu Âu đều từ các
đồn điền tại West-Indies thuộc địa của Hà Lan (tại các đảo Aruba và
Barbados), qua hải cảng Curacao, nên được gọi là Curacao Aloe, Barbados
Aloe… Các Aloe của châu Phi như Cape Aloe, Uganda Aloe, Natal Aloe… được
gọi chung dưới tên thương mãi Zanzibar Aloe.
Đầu thế kỷ 20, người Pháp cũng đã đem Nha đam vào trồng ở nước ta,
nhất là tại Phan Rang, Phan Thiết để lấy nhựa Aloe xuất sang châu Âu cho
đến sau thế giới chiến tranh lần thứ hai thì không xuất được nữa nên
Aloe vera trở thành cây hoang dại tại Ninh Thuận và Bình Thuận. Trong
những năm gần đây, khi tái phát minh những dược tính quý giá của Nha đam
thì Hoa Kỳ đã trồng khá nhiều Aloe vera tại Florida, Texas và Arizona
do ở nhu cầu chất gel Aloe để làm mỹ phẩm tăng cao.

Khoảng 10 năm trở lại đây thì phong trào trồng Nha đam để xuất khẩu
lớn mạnh tại hai tỉnh mà cây phát triển tốt nhất nêu trên. Khả năng của
chất Aloe gel tươi trong việc giúp trị lành các vết thương đã được ghi
nhận lần đầu tiên vào năm 1935 khi tạp chí Y khoa Mỹ công bố trường hợp
một phụ nữ bị phỏng vì tia X được trị lành bằng cách đắp chất nhày lấy
trực tiếp từ lá Aloe tươi. Sau đó các tác dụng của Aloe gel trên vết
thương và vết phỏng đã được nghiên cứu rất kỹ tại khắp nơi trên thế
giới.
Riêng công trình nghiên cứu tại ĐH Texas (Galverton) đã ghi nhận:
Aloe gel có thể thấm sâu vào mô tế bào, có tác dụng kháng sinh và có tác
dụng làm tê tế bào (giảm đau). Nó diệt vi khuẩn, siêu vi khuẩn và ngăn
sự phát triển của nấm gây bệnh. Aloe gel có tác dụng kháng viêm giảm
đau, làm giãn nở các vi mạch máu, giúp đưa máu về nuôi dưỡng các tế bào
bị hư hại. Tác dụng kháng viêm của Aloe gel đã được giải thích bằng 3 cơ
chế sinh học (Journal of the American Pediatric Medical Association No
84-1994): (1) phân hóa tố (enzym) bradykinase (loại carboxypeptidase)
trong Aloe gel có thể ức chế tác dụng gây đau nhức của Bradykinin. (2)
Magnesium lactat có khả năng ngăn cản tiến trình tạo histamin. (3) Khi
có sự hiện diện của Aloe gel, các chất thromboxan B2 và prostaglandin F2
(các chất gây viêm và gây đau nhức) đều giảm bớt.
Hợp chất loại sterol (lupeol) trong Aloe gel có tác dụng chống sưng
rất mạnh. Aloe gel đã được chứng minh là có tác dụng ngăn chặn được sự
phát triển của các vi trùng Mycobacterium tuberculosis (bệnh lao),
Staphyloccoccus aureus, Streptococcus pyogenes (gây mụn nhọt),
Salmonella paratyphi, Pseudomonas, Escherichia coli... và các loại nấm
gây bệnh như Candida albicans, Trichophyton (nấm tóc), và cả siêu vi
Herpes. Các thử nghiệm lâm sàng ghi nhận Aloe gel giúp vết thương mau
lành (International Journal of Dermatology No. 30-1991): Trong thử
nghiệm “in vivo” Aloe gel giúp mau lành bằng cách kích hoạt trực tiếp
hoạt tính của các đại thực bào và các nguyên bào sợi.

Sự kích hoạt các nguyên bào sợi làm gia tăng sự tổng hợp collagen và
proteoglcan… giúp sửa chữa các hư hỏng nơi mô tế bào. Tác dụng này có lẽ
do các polysaccharid loại mannose: Chất mannose-6-phosphat là chất
chính tác dụng bằng cách kết dính nơi các thụ thể của các yếu tố tăng
trưởng trên bề mặt của các nguyên bào sợi (fibroblast) và do đó gia tăng
hoạt tính của chúng. Hơn nữa, Acemannan, một hợp chất phức tạp trong lá
Nha đam cũng cho thấy có khả năng giúp vết thương chóng lành và giảm
được các phản ứng tác hại của tia phóng xạ trên da (International
Journal of Radiation oncology, biology and physiology No.15-1995).
Cơ chế tác dụng này gồm hai mặt: trước hết Acemannan là một tác nhân
kích hoạt đại thực bào rất mạnh và do đó kích thích sự phóng thích các
cytokin, và thứ đến là các yếu tố tăng trưởng có thể kết dính trực tiếp
với acemannan, tạo sự ổn định và kéo dài khả năng kích ứng tạo mô tế
bào. Các vết phỏng cấp 1 và 2 khi được chữa trị bằng cách thoa trực tiếp
Aloe gel tươi cho thấy thời gian lành vết thương nhanh hơn, đồng thời
vết thẹo cũng nhỏ hơn (Journal of burn care and rehabilitation No
3-1982).
Tác dụng này được cho là do allantoin trong gel. Aloe gel cũng khá
hữu hiệu trong các trường hợp vết thương ngoài da do băng giá và cả
phỏng da vì phơi nắng quá độ: khi phân tích tác dụng trên vết thương cho
thấy Aloe gel tác dụng như một chất ức chế Thromboxane A2, một chất
trung gian gây tiến trình hư hại mô tế bào. Trong trường hợp phỏng thông
thường, vấn đề quan trọng nhất là phải chữa ngay, càng sớm càng tốt, và
điều tốt nhất là dùng ngay chất gel từ một lá Nha đam tươi làm thuốc
thoa ngay vào chỗ bị phỏng và đây là tiến trình cần làm: trước hết làm
lạnh ngay vùng bị phỏng bằng cách ngâm trong nước lã hoặc nước đá chừng 1
phút (nước làm nguội, nước lạnh có tác dụng làm tê, làm ngưng cảm giác
đau và ngăn chặn sự lan tràn của vết thương).

Cắt một lá Aloe tươi, thành từng đoạn và khía một đường sâu, bóc lớp
vỏ ngoài và thoa chất nhày (gel trong suốt) ngay vào vết thương, để chất
nhày tự khô lại trên vết thương. Có thể lặp lại vài lần nếu cần. Các
nhà nghiên cứu tại Đại học y khoa Tokyo đã tìm thấy những lectin trong
Aloe gel có khả năng kích thích hệ miễn dịch gia tăng sự sản xuất các
đại thực bào có thể tiêu diệt được các vi khuẩn và các tế bào lạ (tế bào
ung thư mới phát). Các nghiên cứu tại Nhật và Hà Lan cho rằng các hợp
chất trong Aloe gel có thể giúp gia tăng sự hoạt động của hệ miễn dịch
bằng cách trung hòa được các hóa chất độc hại từ các tế bào hư hỏng và
nhờ đó giúp bảo vệ được các tế bào khác còn nguyên vẹn. Một nghiên cứu
khác tại Trung tâm y học thuộc Viện ĐH Texas (San Antonio), khi nghiên
cứu tác dụng của trích tinh Aloe trên tế bào ung thư cũng cho thấy những
kết quả khả quan.
Tuy nhiên về tác dụng của Aloe-emodin trên tế bào ung thư bạch cầu
thì chưa được Viện ung thư quốc gia Hoa Kỳ chấp nhận vì liều sử dụng
tương đối cao, có thể gây độc hại cho người bệnh. Một thử nghiệm tại
châu Âu cho thấy Aloe gel có khả năng làm hạ đường huyết nơi thú vật. Và
thử nghiệm tại Thái Lan (1996) trên 72 người tiểu đường, tuổi từ 35 đến
60, uống một dung dịch Aloe gel tươi, sau 1 tuần lễ, lượng đường huyết
giảm rõ rệt, và tiếp tục giảm đều trong 35 ngày sau đó; nồng độ
triglycerid cũng giảm theo với nồng độ đường (Phytomedicine No 3-1996).
Tại nước ta hiện thời có nhiều người dùng lá Nha đam tươi xay sinh tố
luôn cả vỏ để trị bệnh là không tốt vì chất nhựa Aloe trong vỏ màu lục
có độc. Ngoài ra trên thị trường có nhiều sản phẩm từ gel Aloe được bán
với giá rất đắt là không cần thiết vì không đạt yêu cầu bằng ăn gel
tươi. Liều dùng có thể từ 100 - 200g Aloe gel tươi mỗi ngày.