1. Sự tích trầu cau
Ngày xưa có Tân và Lang là hai anh em ruột, dáng người và mặt mày giống
nhau như đúc, chính người nhà cũng nhiều phen nhầm lẫn. Cha họ là một
người cao to nhất trong vùng từng được vua Hùng triệu về Phong Châu ban
thưởng và đặt tên là Cao. Từ đó gia đình lấy họ "Cao".
Hai anh em lớn lên thì cha mẹ qua đời. Cả hai quyến luyến nhau không
rời nửa bước. Người cha trước khi mất có gửi gắm Tân cho một đạo sĩ họ
Lưu, Lang không chịu ở nhà một mình cũng cố xin cùng được học với anh.
Đạo sĩ họ Lưu có cô con gái cùng lứa tuổi với họ.
Để biết ai là anh, ai là em, một hôm cô gái họ Lưu bày ra một mẹo nhỏ.
Giữa lúc họ đang đói, nàng chỉ dọn cho họ một bát cháo với một đôi đũa.
Đứng sau khe vách, nàng thấy người này nhường cháo cho người kia ăn nên
cô biết đó là người anh.Tân và cô gái gặp gỡ và yêu nhau. Đạo sĩ họ Lưu
vui lòng gả con cho Tân. Sau khi cưới, hai vợ chồng đến ở một ngôi nhà
mới, có Lang ở chung.
Từ ngày lấy vợ, Tân không âu yếm em như trước nữa. Lang nghĩ anh "mê vợ quên ta" trong lòng chán nản buồn bực.
Một hôm Lang và Tân cùng lên nương đến tối mịt mới về. Lang về trước
làm vợ Tân nhầm liền ôm chầm lấy, lúc đó Tân bước vào nhà và ghen em,
hững hờ với Lang. Lang vừa giận vừa thẹn. Chàng bỏ nhà ra đi lúc trời
mới mờ sáng, trong lòng bực bội. Mấy ngày đường, Lang tới bờ một con
sông lớn nước chảy xiết. Lang quyết không chịu trở lại, cúi gục trên bờ,
ôm mặt khóc. Chàng khóc mãi, khóc mãi, đến nỗi những con chim đi kiếm
ăn khuya vẫn còn nghe tiếng nức nở. Sáng hôm sau, Lang hóa đá.
Mãi sau vẫn không thấy em về, Tân bổ đi tìm không thấy tăm
dạng. Biết là em bỏ đi vì giận mình, chàng hối hận. Hôm sau nữa, cũng
không thấy về, Tân hoảng hốt để vợ lại nhà, cất bước đi tìm. Chàng đến
bờ con sông thấy em đã hóa thành đá. Tân đứng bên cạnh hòn đá khóc mãi
cho đến lúc chết và hóa thành một cây thân mọc thẳng lên trời, bên cạnh
hòn đá.
Vợ Tân chờ mãi không thấy chồng về, cũng bỏ nhà đi tìm. Nàng cũng tới
con sông khóc cạn cả nước mắt và chết hóa thành một cây dây quấn quanh
lấy cây kia.
Đợi mãi không thấy ba người về, vợ chồng đạo sĩ nhờ mọi người chia nhau
tìm kiếm. Trước hòn đá và hai cây lạ, họ dựng miếu thờ cả ba người trẻ
tuổi ở ven sông. Nhân dân quanh vùng gọi là miếu "anh em hòa thuận, vợ
chồng tiết nghĩa".
Một năm nọ trời hạn hán rất dữ chỉ có hai cây mọc bên cạnh hòn đá trước
miếu là vẫn xanh mượt. Mọi người cho là linh dị. Vua Hùng một hôm ngự
giá qua xứ đó. Khi đi qua trước miếu, vua ngạc nhiên hỏi: -"Miếu này thờ
vị thần nào? Mấy loại cây này ta chưa từng thấy bao giờ?". Lạc tướng
cho gọi mấy cụ già ở quanh vùng đến hỏi. Hùng Vương càng nghe, không
ngăn được sự cảm động. Vua vạch lá trèo lên nhìn khắp mọi chỗ và sai một
người trèo cây hái quả xuống nếm thử. Vị chát không có gì lạ. Nhưng khi
nhai với lá cây dây thì một vị là lạ đến ở đầu lưỡi: nó vừa ngon ngọt,
vừa thơm cay.
Tự nhiên có một viên quan hầu kêu lên: - "Trời ơi! Máu!". Thì ra những
bãi nhai quả và lá của hai thứ cây đó một khi nhổ xuống đá bỗng đỏ ối ra
như máu. Vua sai lấy cả ba thứ nhai lẫn với nhau thì bỗng người thấy
nóng bừng như có hơi men, môi đỏ tươi sắc mặt hồng hào tươi đẹp. Vua
bảo:
- Thật là linh dị! Đúng là họ rồi! Tình yêu thương của họ thật là nồng nàn thắm đỏ.
Từ đó vua Hùng ra lệnh cho mọi nơi phải gây giống cho nhiều
hai loại cây ấy, bắt buộc trai gái khi kết hôn thế nào cũng phải tìm cho
được ba món: trầu, cau và vôi cho mọi người nhai nhai nhổ nhổ một tý để
ghi nhớ tình yêu không bao giờ phai lạt. Từ đó dân Việt mới có tục ăn
trầu.
Cho đến ngày nay, trầu cau vẫn là thứ không thể thiếu việc giao hiếu,
kết thân và cưới hỏi của người Việt. Thể hiện rõ tình cảm thắm thiết
giữa những người thân trong gia đình.